
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
– Vị thành niên (VTN): “giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn”
– Độ tuổi vị thành niên: từ 10 đến 19 tuổi, chiếm 20% dân số
– Sức khỏe sinh sản vị thành niên (SKSS VTN): “Là tình trạng khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan đến cấu tạo và hoạt động của bộ máy sinh sản ở tuổi VTN, chứ không chỉ là không có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó”.
II. NHỮNG THAY ĐỔI Ở ĐỘ TUỔI VTN:
A. Thay đổi về thể chất:
NỮ
– Phát triển chiều cao.
– Phát triển cân nặng.
– Tuyến vú phát triển → Ngực to ra.
– Khung chậu phát triển → mông to ra (to hơn nam giới).
– Phát triển lông mu.
– Đùi thon.
– Bộ phận sinh dục phát triển: âm hộ, âm đạo to ra, tử cung và buồng trứng phát triển.
– Có kinh nguyệt.
– Ngưng phát triển bộ xương sau khi hình thể đã hoàn thiện.
NAM
– Phát triển chiều cao.
– Phát triển cân nặng.
– Phát triển lông mu.
– Thay đổi giọng nói (bể giọng, giọng nói ồ ồ), sau 18 tuổi giọng trầm trở lại.
– Tuyến bã, tuyến mồ hôi phát triển.
– Ngực và hai vai phát triển.
– Các cơ của cơ thể rắn chắc.
– Lông trên cơ thể và mặt phát triển, xuất hiện lông ở bộ phận sinh dục.
– Dương vật và tinh hoàn phát triển.
– Bắt đầu xuất tinh.
– Trái cổ do sụn giáp phát triển.
– Ngưng phát triển bộ xương sau khi hình thể đã hoàn thiện.
Chú ý: Thời kỳ dậy thì chính thức ở nam và nữ chứng tỏ rằng: bộ máy sinh dục đã trưởng thành, các em có khả năng thực hiện quan hệ tình dục, nam có thể làm cho nữ giới mang thai và nữ có thể có thai và sinh con.
B. Thay đổi về tâm sinh lý:
1. Nhân cách:
– Cố gắng làm được những điều mình mong muốn.
– Thường đặt ra những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi có thể làm gì?
2. Tâm lý: Cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa.
– Muốn được đối xử như người lớn.
– Muốn thoát ra khỏi những ràng buộc của gia đình, thường xảy ra những xung đột giữa trẻ VTN và cha mẹ.
3. Tình cảm:
Quan tâm và có cảm giác lạ với người khác phái, yêu đương nông cạn, quan hệ tình dục không an toàn.
III. CÁC NGUY CƠ HAY GẶP Ở TUỔI VTN:
Do những thay đổi trên mà VTN dễ bị: dụ dỗ, mua chuộc, lường gạt, xâm hại và dễ bắt chước.
1. Quan hệ tình dục bừa bãi, không an toàn , hậu quả:
1.1. Mang thai sớm ngoài ý muốn:
– Dễ bị sẩy thai, đẻ non, nhiễm độc thai, làm tăng nguy cơ tử vong mẹ.
– Do khung chậu phát triển chưa đầy đủ nên khi sanh dễ phải can thiệp bằng thủ thuật hoặc phẫu thuật.
– Làm mẹ quá trẻ, cơ thể phát triển chưa đầy đủ dễ dẫn đến thiếu máu, thai kém phát triển, dễ bị chết lưu.
– Tỉ lệ trẻ sinh ra thiếu cân, trẻ suy dinh dưỡng, trẻ mắc bệnh và tử vong cao hơn nhiều so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành.
– Bỏ học giữa chừng, ảnh hưởng tới tương lai.
– Làm mẹ sớm dễ bị căng thẳng, khủng hoảng tâm lý, tổn thương tình cảm, dễ chán nản, cảm thấy cách biệt với gia đình và bạn bè.
– Bị người kia bỏ rơi hoặc phải cưới gấp với người mà bạn không muốn có cam kết cuộc sống với người đó.
– Bản thân và gia đình phải gánh chịu những định kiến của xã hội.
– Gánh nặng về kinh tế khi nuôi con.
– Góp phần làm tăng chi phí xã hội, tăng dân số.
– Phá thai có thể đưa đến các tai biến: choáng, chảy máu, nhiễm trùng, thủng tử cung, vô sinh …
1.2. Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục (BLQĐTD) và HIV/AIDS.
2. Dễ bị lôi cuốn bởi các chất kích thích, chất gây nghiện như: rượu, thuốc lá, ma túy.
IV. VTN CẦN LÀM GÌ ĐỂ PHÒNG TRÁNH NHỮNG TÁC HẠI?
1. Rèn luyện về kỹ năng sống:
– Chủ động tìm hiểu kiến thức về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên từ cha mẹ, thầy cô, anh chị, người thân và bạn bè.
– Cần tâm sự về những lo lắng, băn khoăn, thắc mắc với người thân trong gia đình, thầy cô, bạn bè, người có uy tín, kiến thức và có trách nhiệm.
– Có thời gian biểu học tập, nghỉ ngơi, giải trí và tập luyện thể dục thể thao cho phù hợp và điều độ.
– Phân biệt rõ ràng giữa tình yêu và tình bạn khác giới trong sáng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
2. Chăm sóc sức khỏe sinh sản, vệ sinh cá nhân, vệ sinh bộ phận sinh dục:
– Nữ:
* Phải biết cách thực hiện vệ sinh kinh nguyệt (thay băng vệ sinh thường xuyên trong thời gian hành kinh).
* Đến 15-16 tuổi mà không có kinh nguyệt thì phải đi khám.
* Uống viên sắt: kể từ khi bắt đầu có kinh nguyệt, mỗi tuần uống 01 viên, liên tục 16 tuần trong 01 năm (16 viên/năm) để phòng tránh thiếu máu do thiếu sắt.
– Nam:
* Phải biết phát hiện những bất thường về cơ quan sinh dục của mình để đi khám bệnh kịp thời như: hẹp bao quy đầu, tinh hoàn ẩn, vị trí bất thường của lỗ tiểu.
* Không mặc quần lót quá bó sát, chật hẹp
3. Tránh xa những hình ảnh, sách báo, phim ảnh, trang web khiêu dâm, đồi trụy; tránh xa rượu, thuốc lá, ma túy.
4. Không nên quan hệ tình dục (QHTD) trước tuổi trưởng thành
5. Nếu QHTD, phải thực hiện tình dục an toàn:
– Sống chung thủy với 01 bạn tình.
– Sử dụng bao cao su đúng cách mỗi khi QHTD để vừa tránh mang thai ngoài ý muốn, vừa tránh các BLQĐTD và HIV/AIDS.
4 bước sử dụng bao cao su (BCS):
• Bước 1: Đẩy BCS về một phía, xé bao ngoài ở phía kia, lấy BCS ra.
• Bước 2: Dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ, bóp nhẹ núm bao để đẩy hết không khí ra ngoài, trùm bao vào đầu dương vật đã cương cứng, vuốt nhẹ bao để phủ hết chiều dài dương vật.
• Bước 3: Sau khi xuất tinh, giữ nhẹ vành bao rồi từ từ rút dương vật vẫn còn cương cứng ra khỏi bao, tuyệt đối tránh tinh dịch tràn ra ngoài.
• Bước 4: Cột chặt miệng bao và đem bỏ vào thùng rác.
Lưu ý khi sử dụng BCS:
• Một BCS chỉ được sử dụng cho 01 lần quan hệ tình dục.
• Không được kéo dãn BCS trước khi trùm vào dương vật. Đa số các trường hợp mang thai ở VTN là ngoài ý muốn. Vì không mong đợi nên việc mang thai gây rất nhiều ảnh hưởng và xáo trộn tới cuộc sống và sức khỏe của VTN. Việc quyết định tiếp tục giữ hay chấm dứt mang thai là một quyết định khó khăn đối với vị thành niên. Cán bộ y tế cần hỗ trợ VTN cân nhắc cẩn thận các nguy cơ về sức khỏe, tâm lý và các yếu tố kinh tế - xã hội.
1. Các yếu tố dẫn đến mang thai ở VTN.
- Sự thiếu hiểu biết về chu kỳ kinh nguyệt, cơ chế thụ thai, các biện pháp tránh thai…
- Thiếu tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc SKSS.
- Quan hệ tình dục không chuẩn bị, không mong muốn.
- Quan hệ tình dục trước hôn nhân, sống thử trước hôn nhân ngày càng tăng.
2. Những nguy cơ có thể gặp khi mang thai ở tuổi VTN.
2.1. Nguy cơ khi tiếp tục giữ thai và sinh đẻ.
- Mang thai ở tuổi VTN ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, nguy cơ tử vong mẹ vẫn còn cao so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành. Mẹ dễ bị thiếu máu, tiền sản giật, đẻ non, sẩy thai, chuyển dạ đình trệ, bất tương xứng thai khung chậu. Trong lúc sinh: đẻ khó, dễ phải can thiệp bằng các thủ thuật và phẫu thuật (forceps, giác kéo).
- Tỷ lệ tử vong trẻ em sinh ra do các bà mẹ VTN trong năm đầu cao hơn so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành. Con của các bà mẹ vị thành niên thường có tỉ lệ nhẹ cân, bệnh tật và tử vong cao gấp nhiều lần so với con của các bà mẹ tuổi trưởng thành.
- Về mặt kinh tế - xã hội: khi có thai VTN phải gián đoạn việc học hành, khó khăn về kinh tế và không kiếm được việc làm, dẫn VTN vào con đường bế tắc. Hạnh phúc gia đình có thể bị rạn nứt, dễ lâm vào cảnh éo le, ảnh hưởng đến tương lai của VTN. Tỷ lệ ly dị cao, dễ bị phân biệt đối xử. Làm mẹ sớm dễ bị căng thẳng và khủng hoảng tâm lý.
2.2. Nguy cơ khi phá thai ở tuổi VTN.
- Do mặc cảm, xấu hổ nên VTN thường tìm kiếm dịch vụ phá thai không an toàn.
VTN thường không biết các dấu hiệu để nhận biết thai nghén, nên không tìm đến cơ sở y tế sớm dẫn đến phá thai to.
- Do cơ thể chưa phát triển hoàn chỉnh, tâm lý lại lo sợ nên thủ thuật phá thai ở VTN thường xảy ra nhiều tai biến hơn ở người trưởng thành.
- Những ảnh hưởng tâm lý sau phá thai ở tuổi VTN có thể rất nặng nề và kéo dài.
3. Chẩn đoán thai ở vị thành niên.
3.1. Hỏi.
- Có quan hệ tình dục.
- Chậm kinh, các triệu chứng mang thai.
3.2. Triệu chứng lâm sàng.
- Khám vú: căng, quầng vú sẫm màu, có hạt nâu.
- Khám âm đạo: cổ tử cung mềm, tím; tử cung to, mềm.
3.3. Xét nghiệm.
- Thử hCG nước tiểu hoặc siêu âm.
3.4. Chẩn đoán xác định
Dựa vào hCG (+) hoặc siêu âm có thai kết hợp với các triệu chứng lâm sàng.
Các giai đoạn tuổi vị thành niên
Vị thành niên (người sắp đến tuổi trưởng thành) là những em kể cả trai và gái, thuộc lớp người từ 10 đến 19 tuổi. Lớp tuổi vị thành niên này được chia ra ba nhóm: Từ 10 đến 13 tuổi là nhóm vị thành niên sớm; Từ 14 đến 16 tuổi là nhóm vị thành niên giữa; Từ 17 đến 19 tuổi là nhóm vị thành niên muộn.
Sự phân chia này dựa theo đặc điểm ít nhiều khác nhau về phát triển cơ thể và tâm sinh lý của lứa tuổi vị thành niên, để việc chăm sóc sức khoẻ cho phù hợp với từng nhóm đối tượng. Tuy vậy cách phân chia này cũng chỉ có tính tương đối.
Với bé gái
Bắt đầu từ 8-13 tuổi, trung bình 15 tuổi, hoàn tất 13-18 tuổi.
Về phát triển cơ thể: Với các em gái bộc lộ đầu tiên là ở vú (từ núm vú nhỏ đã nhô lên rõ hơn và hình thành quầng vú và bầu vú. Có thể một vú hơi to hơn bên đối diện, đó là hiện tượng bình thường. Vú phát triển đầy đủ sau 18 tháng). Đồng thời với sự phát triển của đôi vú nở nang là sự phát triển xương chậu (khung chậu nữ tròn hơn và rộng hơn so với khung chậu của nam), xương đùi, các mô mỡ hình thành các đường cong duyên dáng thiếu nữ, buồng trứng bắt đầu hoạt động đánh dấu bằng hiện tượng kinh nguyệt...
Thay đổi sinh lý: Thông thường hàng tháng 1 nang noãn phát triển đến trưởng thành, sau 2 tuần nang vỡ (phóng noãn), phần vỏ nang phát triển thành hoàng thể. Nang noãn tiết oestrogen, hoàng thể tiết progesterone.
Trong khoảng 1 năm đầu vòng kinh thường không có phóng noãn nên kinh nguyệt không đều, thời gian hành kinh cũng thay đổi.
Với bé trai
Ở bé trai xuất hiện từ: 10-15 tuổi. Trẻ sẽ “vỡ tiếng”, có ria mép xuất hiện lúc đầu mọc ở góc môi rồi lan ra khắp môi trên, sau đó đến phần trên của má, và vùng môi dưới, dưới cằm. Số lượng lông ở mặt do di truyền.
Tinh hoàn to lên và hoạt động để sinh ra chất nội tiết sinh dục nam và tinh trùng.
Về hoạt động ngoại tiết: Tinh bào được sản xuất từ ống sinh tinh trở thành tiền tinh trùng, qua mào tinh thành tinh trùng trưởng thành. Tinh trùng được tập kết tại túi tinh.
Hoạt động nội tiết: Tinh hoàn tiết testosterone. Túi tinh và tuyến tiền liệt sản xuất phần lỏng của tinh tương. Biểu hiện xuất tinh, những lần đầu là mộng tinh (xuất tinh khi ngủ). Tinh trùng được sản xuất liên tục.
Những thay đổi về tâm lý
Với những đặc điểm sinh lý riêng biệt, trẻ muốn khẳng định mình nên dễ thay đổi tính cách, hành vi ứng xử được thể hiện như sau:
Tính độc lập: Bắt đầu có xu hướng tách ra, ít phụ thuộc vào cha mẹ. Chuyển từ sinh hoạt gia đình sang sinh hoạt bạn bè, tín ngưỡng để đạt được sự độc lập. Đôi khi chống đối lại bố mẹ, vì vậy các bậc phụ huynh cần quan tâm uốn nắn, nhưng phải kiên trì, mềm dẻo, linh hoạt để tránh chạm tự ái đến tổn thương tinh thần.
Về nhân cách: Cố gắng khẳng định mình như một người lớn vì vậy có những hành vi bắt chước người lớn.
Về tình cảm: Chuẩn bị cho mối quan hệ yêu đương (xuất hiện tình yêu bạn bè, khó phân biệt đâu là tình yêu, đâu là bạn bè, dễ mơ mộng, khi đổ vỡ niềm tin dễ chán nản), học cách biểu lộ tình cảm và điều khiển cảm xúc, phát triển khả năng yêu và được yêu, tỏ thái độ thân mật trong quan hệ với người khác.
Tính tích hợp: Những thông tin thu thập được từ cha mẹ, nhà trường, xã hội, bạn bè, người trung gian, các hoạt động văn hóa là cơ sở để tạo ra giá trị của bản thân tạo niềm tự tin và cách ứng xử.
Về trí tuệ: Vị thành niên thường thích lập luận, suy diễn nhìn sự vật theo quan điểm lý tưởng hóa. Giai đoạn phát triển đặc biệt này chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của các điều kiện văn hóa, giáo dục, kinh tế của môi trường gia đình và xã hội đồng thời cũng là giai đoạn gây nhiều lo ngại cho các bậc cha mẹ và cho cộng đồng. Tuổi vị thành niên ở mỗi nền văn hóa có những đặc điểm riêng nhưng nói chung còn bộc lộ tính phụ thuộc, sự khủng hoảng về nhân cách và hoang mang về tâm lý mà như nhiều người đã nhận xét, các em đang muốn khám phá chính mình. Tuy trưởng thành về mặt cơ thể nhưng vị thành niên vẫn cần phải được giúp đỡ, giáo dục của nhà trường, gia đình để hình thành nhân cách phát triển đúng hướng.
Hậu quả về hành vi tình dục sớm
Do sự phát triển cơ thể chưa hoàn chỉnh, vì vậy hành vi tình dục ở độ tuổi vị thành niên thường không kiểm soát và thường dẫn đến thai nghén ngoài ý muốn. Nếu mang thai ở tuổi vị thành niên sẽ liên quan đến một số hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ tình dục như nạo phá thai, sẩy thai, sinh thiếu cân, đẻ non, thai nhỏ so với tuổi thai, tử vong mẹ. Đây thực sự là một thảm họa, là gánh nặng cho bản thân, cho gia đình và xã hội.
Chính sự mang thai ở tuổi vị thành niên cũng gây ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển thể chất và tâm sinh lý cũng như phát triển trí tuệ sau này.
Quan hệ tình dục không an toàn có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục đang là nỗi lo ngại của cộng đồng (lậu, giang mai, HIV...).
Hậu quả về kinh tế, xã hội với vấn đề thai sản và sinh đẻ ở tuổi vị thành niên bao gồm:
Hạn chế khả năng học tập hoặc bỏ học dẫn đến giảm cơ hội tìm được việc làm tốt hoặc từ bỏ quyền làm mẹ, có khi giết đứa trẻ mới sinh hoặc bi quan tự sát, làm gái mại dâm... Điều kiện kinh tế khó khăn sẽ ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của cả mẹ và con.
Nhà nước phải chi trả trực tiếp trợ cấp về y tế, xã hội để giải quyết khó khăn cho mẹ và con; làm tăng tốc độ phát triển dân số; điều kiện chăm sóc trẻ và sức khỏe của người mẹ không được tốt.
Các bậc phụ huynh cần làm gì để giáo dục trẻ?
Phải dạy cho các em những kiến thức, kỹ năng cụ thể như cách từ chối tình dục, cách giữ gìn thân thể, cách thoát hiểm... Tùy theo lứa tuổi mà có phương thức, nội dung phù hợp. Ở trường học nên tổ chức vào giờ ngoại khóa, sinh hoạt chủ đề, phòng tư vấn và tùy nội dung có thể nam, nữ học riêng. Tại nhà bố mẹ nên dành thời gian trò chuyện tâm sự, giữa mẹ với con gái, bố với con trai. Đây chính là chìa khóa giúp con biết cách tự vệ, giữ gìn bản thân ở mọi hoàn cảnh, khi người khác có cái nhìn khiếm nhã, có động tác đụng chạm, người lạ rủ đi chơi, dụ cho ăn uống, cho quà... Vấn đề mấu chốt là trang bị cho con gái lứa tuổi vị thành niên kỹ năng sống và biết cách từ chối trước những đòi hỏi hoặc dụ dỗ từ bạn tình; những cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống để giúp con tránh được những nguy cơ có thể đến với chúng.